Khoáng vật Corundum có độ cứng chỉ sau kim cương là gì?

Khoáng vật Corundum có độ cứng chỉ sau kim cương là gì?

| |Tin tức

Khoáng vật có độ cứng chỉ sau kim cương là gì? RubySapphire là hai loại đá quý được nhiều người biết đến. Nhưng cái tên khoáng vật Corundum thì không phải ai cũng biết. Vậy Corundum là gì? Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về khoáng vật có độ cứng chỉ đứng sau kim cương này nhé.

MỤC LỤC

Khoáng vật Corunlum có độ cứng chỉ sau kim cương là gì ?

Corundum tự nhiên là như thế nào

Nguồn gốc Corundum được con người tạo ra

Khoáng vật Corunlum có độ cứng chỉ sau kim cương là gì ?

Corundum là một dạng kết tinh của oxit nhôm (Al2O3); Với một ít tạp chất bao gồm sắt, titan và crom. Đây là một trong các khoáng vật tạo ra đá. Corundum tinh khiết không có màu; nhưng khi lẫn tạp chất thì nó có nhiều màu khác nhau. Các mẫu trong suốt được dùng làm đá quý có màu đỏ được gọi là ruby. Những màu lam còn lại được gọi là sapphire. Sapphira màu cam sắc tím ở Ấn Độ được gọi là padparadscha; và sapphire màu đỏ nhạt được gọi là patmaraga.

Khoáng vật Corundum có tạp chất màu đỏ được gọi là ruby.

Corundum có độ cứng cao (corundum nguyên chất có độ cứng 9,0 theo thang độ cứng Mohs). Nó có thể rạch xước hầu hết các khoáng vật khác. Để lại trên các khoáng vật đó vết vạch màu trắng. Corundum có hệ tinh thể ba phương. Nó thường được dùng để làm bột mài, từ giấy mài; đến các máy lớn trong gia công kim loại, nhựa và gỗ. Có một vài dạng emery là hỗn hợp của corundum và các chất khác. Khi đó khả năng mài của đá sẽ giảm và độ cứng trung bình chỉ còn khoảng 8,0.

Ngoài độ cứng cao, corundum còn có tỷ trọng riêng lớn vào khoảng 4,02 g/cm3. Trong số các khoáng vật được cấu tạo từ các nguyên tố nhẹ như nhôm và oxy thì đây là tỉ trọng rất lớn.

Corundum tự nhiên là như thế nào

Corundum thường có tinh thể hình trụ lưỡng tháp, hình tonno, khối mặt thoi và song diện. Các mặt của lăng trụ và lưỡng tháp thường có vết vạch chéo hoặc nằm ngang. Corundum thường tản mạn, có khi tạo thành những khối đặc trong đá. Nó có nhiều màu như phớt xanh, xám vàng, đỏ, phớt tím. Nếu trong suốt thì sẽ tạo thành ngọc.

Người ta tìm thấy Corundum trong các đá biến chất; như diệp thạch, gơnai, và đá hoa ở dạng tinh thể. Đôi khi còn có trong syenit ít silica và nephelin syenit xâm nhập. Nó còn có mặt trong các đá xâm nhập siêu mafic dạng khối; cùng với đai mạch lamprophyre và kết tinh thành tinh thể lớn trong pegmatit. Vì corundum có độ cứng lớn nên khó bị phong hóa. Do vậy nên chúng thường xuất hiện ở dạng sa khoáng ở sông hoặc bãi biển cát.

Corundum được khai thác ở Zimbabwe, Nga và Ấn Độ, thường dùng để làm bột mài. Chúng cũng từng được khai thác từ trầm tích phong hóa; từ nephelin syenit ở Craigmont, Ontario và từ dunit ở Bắc Carolina. Người ta tìm thấy emery corundum được tìm thấy ở Hy Lạp, đảo Naxos và gần Peekskill, New York. Corundum mài được sản xuất từ bauxit.

Viên Corundum tinh khiết không có tạp chất gần như không có màu.

Nguồn gốc Corundum được con người tạo ra

Gaudin đã tạo ra ruby tổng hợp đầu tiên bằng cách nung nóng chảy nhôm ở nhiệt độ cao; cùng với một ít croom làm chất tạo màu vào năm 1837. Đến năm 1847, Edelman đã tạo ra sapphire trắng bằng cách nung chảy oxit nhôm, trong dung dịch axit boric. Năm 1877, Frenic và Freil đã tạo ra corundum tinh thể từ các mảnh đá nhỏ. Năm 1903, Verneuil đã thông báo sản xuất ruby tổng hợp ở mức độ thương mại. Từ quá trình nung chảy BaF2 và Al2O3 với một ít crom ở nhiệt độ trên 2000 độ.

Quá trình Verneuil có thể tạo ra các tinh thể rubysapphire đơn lẻ. Còn có kích thước lớn hơn kích thước được tìm thấy trong tự nhiên. Đây là phương pháp đơn giản để tạo ra corundum. Nên có thể tạo ra số lượng các tinh thể tung ra thị trường. Ngoài giá trị trang trí, corundum tổng hợp còn được dùng làm trong máy móc như ống, cần, khảm... Tinh thể chống trầy xước và cửa sổ cho các thiết bị quang học; trên phi thuyền, trong công nghệ laser.

XEM THÊM

xem thêm tại blog: PHONG THỦY

Viết bình luận